Trên thị trường tài chính, cổ phiếu là loại chứng khoán thu hút nhiều nhà đầu tư cá nhân nhất. Cho nên với nhiều người, đầu tư chứng khoán cũng chính là đầu tư cổ phiếu.
Tuy nhiên, đầu tư cổ phiếu không giống như đầu tư cho vay lấy lãi. Nó có thể mang lại nhiều lợi nhuận, nhưng cũng có thể làm âm vốn gốc, thậm chí mất trắng. Vậy lời hay lỗ từ cổ phiếu đến từ đâu?
Cổ tức tiền mặt (cash dividend)
Đây là hình thức cơ bản và dễ hình dung nhất của việc đầu tư vào cổ phiếu. Khi mua cổ phiếu của một công ty thì nhà đầu tư trở thành một trong những chủ sở hữu của công ty.
Nếu công ty có lời và phân chia lợi nhuận, thì các cổ đông sẽ nhận được phần tương ứng với vốn góp của mình, gọi là cổ tức tiền mặt. Cần lưu ý ở đây là cổ tức còn phụ thuộc vào tỷ lệ chi trả cổ tức, nghĩa là có bao nhiêu phần trăm lợi nhuận ròng được dùng để chia cho các cổ đông, và phần còn lại để tái đầu tư.
Ví dụ một công ty có lợi nhuận ròng là 100 tỷ đồng, tỷ lệ chi trả cổ tức (payout ratio) là 60%. Điều này có nghĩa 60 tỷ đồng sẽ được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ sở hữu. Người nắm 1% số lượng cổ phần sẽ được 1% của 60 tỷ, và công ty sẽ giữ lại 40 tỷ đồng để tái đầu tư.
Nếu công ty có 10 triệu cổ phiếu phổ thông lưu hành thì cổ tức của mỗi cổ phiếu sẽ là 6.000 đồng. Và nếu giá hiện hành của một cổ phiếu là 100.000 đồng thì tỷ lệ cổ tức (dividend yield) là 6%.
Có nhiều nhà đầu tư quan tâm đến những cổ phiếu có tỷ lệ cổ tức tốt và đều. Trong số họ, phần lớn là những người về hưu hay muốn có thu nhập ổn định.
Những công ty có tỷ lệ cổ tức tốt và đều thường là những công ty kinh doanh các mặt hàng hay dịch vụ thiết yếu, và có thâm niên hoạt động. Nhóm cổ phiếu này thường được gọi với cái tên là “income stocks”.
Chênh lệch giá (capital gains)
Nhà đầu tư hay đầu cơ cũng có thể tìm lợi nhuận từ cổ phiếu thông qua chênh lệch giá khi mua-bán hay bán-mua.
Mua-bán
Trong trường hợp mua-bán, đó là mua ở giá thấp và bán ở giá cao.
Ví dụ, khi mua một cổ phiếu ở giá 100.000đ/cp, rồi sau đó bán ở giá 120.000đ/cp thì lợi nhuận sẽ là 20%. Khi mua, hành động này còn được gọi là “long”, và có thể thực hiện trong một khoảng thời gian ngắn hay hay dài.
Với các nhà đầu tư cá nhân, việc mua và nắm giữ trong một thời gian đủ lâu sẽ phù hợp nếu đã tìm hiểu và tin rằng đó là cổ phiếu tốt, công ty có tiềm năng tăng trưởng trong tương lai.
Bán-mua
Trong trường hợp bán-mua, đó là bán ở giá cao và mua lại ở giá thấp hơn. Hành động này được gọi là “short”. Tùy thuộc vào quy định của từng thị trường mà “short selling” được cho phép hay không.
Ở các thị trường phát triển, short selling là một cách giúp thị trường hiệu quả hơn. Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay chưa có short selling chính thức, nhưng nhiều hy vọng là sẽ sớm cho phép.
Trong một số trường hợp, nhà đầu tư có thể nhận được cả hai, cả từ cổ tức tiền mặt lẫn chênh lệch giá.
Làm sao để tối ưu lợi nhuận từ cổ phiếu?
Để ý các loại phí giao dịch
Nhiều người chỉ nhìn vào lợi nhuận gộp khi đầu tư hay đầu cơ vào cổ phiếu mà ít khi, hoặc quên để ý đến chi phí giao dịch và các loại thuế.
Trong khi đó, phí và thuế bào mòn rất nhiều kết quả đầu tư. Hai loại chi phí quan trọng là spread và commission. Càng giao dịch càng nhiều thì chi phí này càng tăng, dù vốn đầu tư ban đầu vẫn giữ nguyên.
Ví dụ, một nhà đầu tư có số vốn ban đầu là 100 triệu đồng. Nhưng nếu mua đi bán lại 10 lần thì giá trị trị giao dịch lên đến 1 tỷ đồng, và phí giao dịch là tính trên 1 tỷ đồng đó. Nếu tổng phí này ở mức 0,3% thì tính ra chưa làm gì thì nhà đầu tư đã lỗ trước 3%.
Xác định thời điểm để bán cổ phiếu chốt lời, đồng thời giảm thuế thu nhập vốn (capital gains tax)
Đây là cách nhằm tối ưu lợi nhuận từ cổ phiếu ở nhiều thị trường.
Ở hầu hết các nước, lợi nhuận từ cổ phiếu, từ cổ tức đến chênh lệch giá đều phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Chính vì vậy, nhiều nhà đầu tư thường chọn thời điểm có những khoản thua lỗ để bán những cổ phiếu có lời, từ đó làm giảm đi lợi nhuận và số thuế phải nộp.
Ví dụ, một nhà đầu tư có khoản lỗ đã thực hiện từ cổ phiếu A là 100.000 USD. Trong khi đó, nhà đầu tư đó cũng sở hữu cổ phiếu B đang lời 150.000 USD và không có nhiều khả năng tăng mạnh nữa.
Nếu áp dụng cách này, nhà đầu tư sẽ bán chốt lời, để phần lời chịu thuế của năm chỉ là 50.000 USD. Nếu để qua năm sau mới bán, đúng lúc không có khoản lỗ nào thì sẽ phải nộp thuế trên khoản lợi nhuận 150.000 USD hoặc hơn.
Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện đang thực hiện mức khoán thuế thu nhập 0,1% trên giá trị giao dịch, mà không căn cứ vào mức lãi ròng từ chứng khoán trong năm tài chính.
Quy định này được coi là bất cập, do trong trường hợp nhà đầu tư bị lỗ, họ vừa chịu lỗ vừa phải nộp thuế. Vì vậy, có lẽ quy định này sẽ thay đổi cho phù hợp trong thời gian tới.
Kết
Khi nhìn những cơ hội có được lợi nhuận từ cổ phiếu, ta thấy hấp dẫn nhưng thực tế không hề đơn giản như hình dung. Cổ phiếu là một kênh đầu tư có mức độ rủi ro cao, có khả năng bị thua lỗ và có khi bị mất hết cả vốn.
Có nhiều trường hợp nghiêm trọng là mua nhầm cổ phiếu của công ty có vấn đề, sau đó bị hủy niêm yết, rồi phá sản. Hoặc đầu cơ cổ phiếu với đòn bẩy cao, thua lỗ bị khuếch đại dẫn đến âm hoặc mất hết vốn.
Trên thị trường, những cơ hội đầu tư có lợi nhuận kỳ vọng cao mà rủi ro thấp là rất hiếm. Chính vì vậy, khi đầu tư hay đầu cơ vào cổ phiếu, ta luôn cần tính đến các phương án quản trị rủi ro.