Nhà văn Nguyễn Phan Quế Mai: Muốn giành lại quyền kể chuyện của người Việt khi viết về Việt Nam

Nguồn: Danky cho Vietcetera
“Mình gặp nhiều nhân vật thật ở ngoài đời. Chính nước mắt, nụ cười và niềm hy vọng của họ là nguồn sức mạnh cho ngòi bút của mình trong suốt 7 năm sáng tác tiểu thuyết này.” - nhà văn Nguyễn Phan Quế Mai xúc động chia sẻ về “đứa con tinh thần” của chị - Dust Child - quyển tiểu thuyết có hành trình rong ruổi khắp thế giới trong 2 năm, cuối cùng trở về Việt Nam với tên gọi Đời gió bụi, sau này được dịch ra với 15 ngôn ngữ.
Trước Đời gió bụi, nhiều người yêu chữ nghĩa đã biết đến nhà văn Quế Mai thông qua những sáng tác thi ca và tiểu thuyết đầu tay The Mountains Sing (tạm dịch: Những ngọn núi ngân vang), từng nhận nhiều giải thưởng văn học trong nước. Rời Việt Nam từ năm 18 tuổi để du học và sau này sống, làm việc ở nhiều quốc gia, chị Quế Mai vẫn giữ mối gắn kết bền bỉ với lịch sử, ký ức và văn hóa Việt Nam - những chất liệu vốn đã trở thành mạch nguồn xuyên suốt trong những áng văn, thơ của chị.
Sau đây, mời bạn đọc và cảm nhận những chia sẻ về nghề viết của nhà văn Nguyễn Phan Quế Mai, được chấp bút từ cuộc trò chuyện cùng host Thùy Minh trong tập Have A Sip mới nhất.
1. Trong lần gặp mặt trước, chúng ta từng nhắc đến Haruki Murakami và khoảnh khắc ông quyết định trở thành nhà văn tại một sân bóng chày. Chị có thể kể về “khoảnh khắc sân bóng chày” của riêng chị không?
Nghề đọc và viết đến với mình không phải trong khoảnh khắc. Nó là kết quả của một hành trình dài. Tuy vậy, nếu phải xác định một cột mốc khiến sách trở thành trụ cột trong đời sống tinh thần, thì đó là quãng thời gian học cấp hai, khi gia đình mình rơi vào cảnh vỡ nợ.
Từ nhỏ mình đã có sự gắn bó sâu sắc với sách. Sinh ra ở Ninh Bình, năm sáu tuổi mình theo gia đình vào Bạc Liêu sinh sống. Thời đó thiếu thốn điện, không có internet hay ti vi, sách trở thành niềm vui và phương tiện giải trí lớn nhất. Mình hết mượn sách từ hàng xóm, mượn cả bạn bè của ba mẹ khi họ đến chơi nhà, và dành phần lớn thời gian để đọc.
Biến cố xảy ra khi gia đình mình bị lừa mất toàn bộ tài sản. Ba mẹ phải gánh khoản nợ lớn, buộc phải rao bán căn nhà đang ở, anh em mình vừa đi học vừa lao động, làm ruộng để phụ giúp gia đình. Chính trong giai đoạn cùng cực ấy, sách trở thành nơi nương tựa tinh thần cho mình, giúp mình tạm thời bước ra khỏi thực tại, sống những cuộc đời khác, nuôi dưỡng những giấc mơ khác vả giữ lại thêm nhiều niềm hy vọng.
Vậy là mình ước muốn trở thành một nhà văn. Không chỉ viết cho bản thân, mà để có thể tiếp thêm nghị lực và ánh sáng niềm tin cho những ai đang ở hoàn cảnh tương tự mình lúc đó. Những trải nghiệm mang tính bước ngoặt của đời sống, dù vô thức, sau này vẫn tự nhiên tìm đường đi vào các trang viết của mình.
2. Chị được biết đến trước hết với vai trò một nhà thơ. Thơ của chị được yêu mến và thậm chí được phổ nhạc. Vì sao đến năm 2020 chị mới bắt đầu viết văn?
Hành trình sáng tác của mình có hai cột mốc: bắt đầu viết thơ và bắt đầu viết văn.
Mình yêu thơ từ thuở nhỏ, như Phùng Quán viết: “Có những phút ngã lòng / tôi vịn câu thơ và đứng dậy”. Những năm tháng sống ở Bạc Liêu, mình nhớ từng khoảnh khắc bạn bè truyền tay nhau những bài thơ yêu thích, viết lưu bút, nhật ký bằng thơ. Thơ đến với mình một cách tự nhiên và trở thành hình thức biểu đạt gần gũi nhất.
Con đường sáng tác thơ của mình bắt đầu khá tình cờ khi làm việc ở Hà Nội. Trong những chuyến đi hằng ngày, mình viết về những con người lao động bình dị như người gánh hàng rong, người nhặt rác, người chạy xe ôm - những con người mình xem là “anh hùng” của đời sống thường nhật, đôi khi dễ bị lãng quên. Sau đó, mình dịch thơ sang tiếng Anh, với mong muốn giới thiệu một Việt Nam giàu văn hóa và thi ca đến thế giới.
Tương tự thơ, văn cũng nhen nhóm trong mình đam mê từ sớm. Khoảnh khắc quan trọng nhất để mình quyết tâm dấn thân vào con đường văn chương là khi đọc tác phẩm Dế mèn phiêu lưu ký của nhà văn Tô Hoài. Nhân vật Dế Mèn, với tinh thần dám bước ra khỏi vùng an toàn và trưởng thành qua những va vấp, khiến mình nhận ra sức mạnh kỳ diệu của văn chương, từ một con dế nhỏ bé có thể mở ra cả một thế giới rộng lớn và đầy nhân văn. Mình ao ước trở thành nhà văn từ thuở đó, hình ảnh dế mèn sau này cũng trở lại trong tiểu thuyết đầu tay của mình.
3. Vì sao ở tiểu thuyết đầu tay The Mountains Sing, chị lại lựa chọn viết bằng tiếng Anh? Việc sáng tác bằng một ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ mang đến cho chị những khó khăn gì?
Có 3 lý do chính cho việc viết bằng tiếng Anh: học hỏi, thử sức, và để đưa những câu chuyện của Việt Nam ra thế giới.
Viết là một nghề đòi hỏi sự học hỏi không ngừng. Nhà văn cần liên tục tiếp thu tri thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau, từ phê bình, văn hóa đọc đến tâm lý học và nghiên cứu xã hội. Viết bằng tiếng Anh đặt mình vào một thử thách lớn hơn, buộc mình phải rèn luyện nghiêm ngặt hơn, đọc nhiều hơn và suy nghĩ sâu hơn về từng chi tiết của tác phẩm.
Quan trọng hơn, mình muốn giành lại quyền kể chuyện của người Việt khi viết về Việt Nam trong văn học tiếng Anh. Trong một lần đến Thư viện thành phố New York, mình đọc danh sách các tác phẩm tiếng Anh viết về Việt Nam và nhận ra phần lớn được viết bởi các tác giả nước ngoài, với Việt Nam chủ yếu được nhìn qua lăng kính chiến tranh, còn người Việt thường chỉ xuất hiện như phông nền. Mình muốn trực tiếp kể những câu chuyện của đất nước mình, từ góc nhìn và trải nghiệm của một người Việt.
Viết tiểu thuyết bằng tiếng Anh, tất nhiên, đi kèm rất nhiều khó khăn. Nếu viết bằng tiếng Việt, mình có thể cảm nhận và kiểm soát câu chữ bằng trực giác, từ sắc thái cảm xúc đến độ chính xác của ngôn từ. Điều kiện xuất bản là một yếu tố khó khăn khác. Ở Việt Nam, mình đã có những nhà xuất bản tin tưởng và sẵn sàng in tác phẩm, còn với tiếng Anh, không biết liệu bản thảo có được đón nhận hay không. The Mountains Sing, tiểu thuyết đầu tay của mình là một ví dụ. Không tìm được người đại diện văn học hay nhà xuất bản, mình không ít lần rơi vào trạng thái hoài nghi và suy sụp.
Tuy vậy, mình vẫn cứ viết vì tin rằng những câu chuyện ấy cần được kể. Đó là ký ức về làng quê Ninh Bình, về những người phụ nữ đứng trên con đê chờ đợi chồng, con sau chiến tranh, là hình ảnh những hố bom còn hằn sâu trên cánh đồng trong chuyến tàu đưa mình vào Nam năm sáu tuổi, là cầu Hiền Lương từng chia cắt đất nước, là những di chứng chiến tranh vẫn còn hiện hữu qua chất độc da cam và bom mìn chưa nổ.
Mình viết để lên án chiến tranh, và để nuôi dưỡng ước mơ về một thế giới không còn bạo lực trên mọi nẻo đường.
4. Chị viết về chiến tranh vào thời điểm khá muộn, khi đã có nhiều tác phẩm kinh điển ra đời và đất nước đã đi vào giai đoạn hòa bình. Khi lựa chọn đề tài này ở giai đoạn sau, chị có chịu nhiều áp lực không?
Có áp lực, nhưng cũng có nhiều lý do khiến mình tiếp tục viết mà không để áp lực ấy ngăn cản ngòi bút.
Trước đây, có một nhà thơ đi trước từng hỏi mình: những nhà thơ trẻ như em, nếu không trực tiếp sống trong chiến tranh, làm sao viết được về nó? Mình xem câu hỏi ấy như một thử thách nghề nghiệp. Vì với mình, nhà văn không chỉ viết về những gì họ đã trải qua, mà có thể viết về bất cứ đề tài nào, nếu có đủ tư liệu, sự học hỏi nghiêm túc và một thái độ đồng cảm, thấu hiểu.
Mình lựa chọn viết sâu vào nỗi đau không phải để khơi lại bi kịch, mà tìm kiếm sự hàn gắn và chữa lành. Chiến tranh, dù đã lùi xa về mặt thời gian, vẫn chưa kết thúc trong ký ức và đời sống của rất nhiều gia đình Việt Nam. Vẫn còn những người đi tìm hài cốt người thân, vẫn còn những nỗi đau âm ỉ kéo dài qua nhiều thế hệ. Mình tin rằng thế hệ trẻ không được phép quên đi những câu chuyện ấy, nhất là trong nhịp sống ngày càng gấp gáp, khi nhiều tiếng nói cần được lắng nghe đang dần bị lãng quên.
Vì vậy, mình tiếp tục viết về chiến tranh như một cách nâng đỡ những ký ức đó, và cũng như một lời tri ân dành cho những con người đã ra đi. Mỗi cuốn tiểu thuyết, với mình, là một bài thơ dài dâng lên đất mẹ Việt Nam, để Việt Nam vẫn hiện diện sống động, đau đáu và đầy nhân tính trong từng trang sách.
5. Khi nói đến văn học Việt Nam, rất nhiều người vẫn dễ gắn với hai từ “chiến tranh”. Với tư cách một người viết thường đặt bối cảnh tác phẩm trong chiến tranh nhưng không coi đó là câu chuyện trung tâm, chị sẽ phản biện thế nào trước câu nói “lại là một quyển sách về chiến tranh nữa à”?
Đúng. Trong tác phẩm của mình, chiến tranh chưa bao giờ là câu chuyện chính. Trọng tâm những gì mình viết luôn là tình yêu, hòa bình, tình người và gia đình, là hành trình những con người từng đứng ở hai bờ chiến tuyến, cuối cùng tìm được con đường hòa giải cùng nhau.
Chiến tranh chỉ là bối cảnh, bởi đó là một phần không thể tách rời của lịch sử. Nhưng điều mình quan tâm là những khía cạnh ít được kể: số phận của những người phụ nữ bị xã hội vùi dập bởi định kiến, những người con lai lớn lên trong sự kỳ thị kéo dài qua nhiều thế hệ, hay những con người bị đặt ra ngoài lề cộng đồng. Mình muốn nhìn họ trước hết như những con người, với nhân tính, nỗi đau và khát vọng được yêu thương.
Viết trong bối cảnh chiến tranh không có nghĩa là mình muốn Việt Nam chỉ được nhìn như một đất nước chỉ có chiến tranh. Ngược lại, mình muốn giới thiệu Việt Nam như một nền văn hóa phong phú và sâu sắc. Vì vậy, tác phẩm của mình luôn có ca dao tục ngữ, văn học cổ điển, thơ ca và âm nhạc, từ Truyện Kiều đến những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn. Mình luôn xem thơ ca và âm nhạc là một phần cốt lõi trong lịch sử tinh thần của người Việt, và cũng là ngôn ngữ có khả năng chạm tới bạn đọc trên khắp thế giới.
6. Chị là người như thế nào bên ngoài những trang viết? Vì khi trò chuyện, chị mang lại cảm giác vừa rất lãng mạn, như một cô giáo dạy văn, nhưng đồng thời cũng có sự quyết liệt, như một người du kích trong chiến tranh vậy?
Quả thật mình là người rất lãng mạn trong tình yêu. Từ nhỏ, mình đã tin vào sự chung thủy trọn đời.
Tuy nhiên, trong văn chương, mình lại phải rất quyết liệt. Mình chọn viết về những vấn đề gai góc, đau đớn, buộc ngòi bút phải đi thẳng vào sự thật. Khi viết về lịch sử, mình không tin vào một sự thật duy nhất, mà muốn đặt cạnh nhiều góc nhìn khác nhau, thông qua trải nghiệm của con người. Với mình, văn chương trước hết là câu chuyện của con người, viết cho con người, và cần đủ dũng khí để soi chiếu những vùng phức tạp, nhiều tranh cãi.
Khi còn đi học, mình rụt rè, tự ti lắm. Nhưng khi đưa sách ra thế giới, mình phải học cách xông pha. Là một người Việt viết bằng tiếng Anh, ra mắt sách ở Mỹ hay châu Âu đồng nghĩa với việc bước vào một môi trường hoàn toàn xa lạ, nơi mỗi năm có hàng triệu cuốn sách mới ra đời. Nếu mình không đứng lên đại diện cho cuốn sách của mình, thì rất khó để tác phẩm có cơ hội đến với bạn đọc.
7. Khi nhìn lại hành trình viết và sáng tác của mình, nếu phải đúc kết một “công thức” để trở thành nhà văn, theo chị đó sẽ là gì?
Mình nghĩ không có công thức nào cả.
Nhưng có một số yếu tố mà người viết cần có, chẳng hạn tinh thần cầu thị và học hỏi. Mình viết về những đề tài này bởi vì mình muốn hiểu sâu hơn về chúng. Nếu đã biết hết rồi thì đâu còn lý do gì để nghiên cứu nữa. Không chỉ là thu thập tư liệu, mình còn phải nghiên cứu cảm xúc của con người. Với Đời gió bụi, mình đã phỏng vấn hàng trăm người trước khi tác phẩm thành hình.
Việc đọc cũng rất quan trọng. Đọc không chỉ giúp mình rèn luyện kỹ năng viết, đọc để thổi bùng ngọn lửa đam mê. Có những lúc viết đến chẳng còn cảm hứng, chỉ cần cầm lên một cuốn sách hay, tự nhiên lại thấy muốn viết tiếp (cười).
Gần đây, khi trò chuyện với anh Hàm Trần (Đạo diễn phim Tử chiến trên không), mình học thêm rất nhiều về cấu trúc kể chuyện. Anh phân tích cách xây dựng nhịp điệu, cao trào trong phim. Từ đó, mình cũng nghiên cứu rất kỹ những tác phẩm mình yêu thích, từ cách tác giả xây dựng tình huống đến cách dẫn dắt người đọc, viết đa nhân vật, đa tầng thời gian, để tạo sự hấp dẫn và để độc giả cùng tham gia suy đoán câu chuyện.
Một yếu tố nữa là tính kỷ luật. Khi bắt đầu viết tiểu thuyết, giai đoạn mình sống ở Manila, bạn bè thường tụ tập nấu ăn buổi tối, nhưng mình tự đặt kỷ luật cho bản thân: nếu chưa viết xong thì chưa đi. Mình tin điều Murakami từng nói, rằng nhà văn phải viết mỗi ngày, giống như chạy marathon. Vì vậy mình viết mỗi ngày, viết trên máy bay, viết khi đi ra mắt sách, viết cả trong những lúc bận rộn nhất, để ngòi bút luôn được mài giũa.
Ngoài ra, khả năng lắng nghe và xử lý tư liệu cũng vô cùng quan trọng. Đời gió bụi là cuốn sách mình viết trong suốt bảy năm. Mình đi thực địa, về các chiến trường xưa, vào bảo tàng, đọc tất cả những sách và xem tất cả những phim tài liệu liên quan, bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh. Mình tìm ra những khoảng trống chưa được kể và muốn lấp đầy chúng bằng tác phẩm của mình, để cuốn sách có thể đóng góp thêm về mặt tư liệu và cách kể chuyện.
Mình nhận ra rằng người viết tiểu thuyết giống như một người làm vườn. Càng nghiên cứu nhiều, mảnh đất càng màu mỡ. Sau đó, bằng kỹ năng viết, mình trồng lên một cái cây, tạo thân, tạo cành. Khi sách ra đời, cái cây ấy đứng trong khu vườn, còn việc nó có sống được, có ra hoa kết trái hay không là do độc giả quyết định.
8. Chị đã rất thành công với hai tiểu thuyết rồi. Vậy những tác phẩm hay dự án tiếp theo, chị đã có kế hoạch gì chưa?
Hiện tại mình đang làm song song bốn dự án khác nhau. Một cuốn là sách viết cho thiếu nhi. Một cuốn là sách dịch một tác phẩm rất đặc biệt từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Ngoài ra, mình cũng đã hoàn thành bản phác thảo đầu tiên của một tiểu thuyết mới.
Tiểu thuyết này có liên hệ với câu hỏi của Thùy Minh về việc Việt Nam thường được nhìn qua lăng kính chiến tranh. Quyển này hoàn toàn đặt bối cảnh sau chiến tranh, vào những năm 70–80 ở đồng bằng sông Cửu Long, thời kỳ bao cấp. Tuy nhiên vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện.
Ngoài ra, mình cũng vừa ký hợp đồng với một công ty xuất bản ở Mỹ và Pháp. Họ muốn mình viết một cuốn sách về Việt Nam dành cho những người lần đầu đến đây, giống như một người bạn đồng hành du lịch, nhưng được kể qua góc nhìn của một tiểu thuyết gia, viết về con người, văn hóa, những điều rất đời thường trong cuộc sống của người Việt. Mình thấy khá thú vị.
Thật ra, điều hay nhất trong công việc viết lách là được nghiên cứu, được tìm hiểu và được lớn lên mỗi ngày. Càng học, mình càng thấy mình nhỏ bé, vì biển tri thức thì mênh mông quá. Nhưng chính cảm giác đó lại khiến mình muốn tiếp tục học hỏi và viết tiếp.