Jimmy Phạm: 25 năm xây dựng doanh nghiệp xã hội đầu tiên tại Việt Nam

Nguồn: Khooa Nguyen cho Vietcetera
Dù được luật hóa từ năm 2014, nhưng cho đến nay, khái niệm “doanh nghiệp xã hội” vẫn còn khá xa lạ với nền kinh tế Việt. Nhiều người vẫn chưa rõ cách thức vận hành của loại hình doanh nghiệp này, khi vừa kinh doanh, vừa hướng tới mục tiêu xã hội. Liệu nó có thể tự duy trì một cách bền vững nếu không đặt lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu? Ít ai biết rằng, KOTO đã hoạt động dưới mô hình này từ năm 1999, trở thành doanh nghiệp xã hội đầu tiên tại Việt Nam, ngay cả khi thuật ngữ trên còn chưa xuất hiện trong Luật Doanh nghiệp.
Với triết lý trao “cần câu” thay vì trao “con cá”, Jimmy Phạm, Nhà sáng lập KOTO đã trở về Việt Nam, khởi nghiệp với tiệm bánh sandwich 1 đô tại Hà Nội để dạy nghề, và cũng là nơi để học viên có thể thực hành nghề sau khi học. Ông muốn trở thành người thay đổi cuộc sống cực khổ của trẻ em đường phố, để các em có thể tự lập và phát triển bền vững mà không phụ thuộc vào bất kỳ nguồn lực nào từ bên ngoài.
Khi “cần câu” quan trọng hơn “con cá”
Khoảnh khắc “chạm mặt” những đứa trẻ cơ nhỡ trên đường phố Hà Nội, chuyện trò đôi câu với chúng bằng vốn tiếng Việt bập bẹ của mình, cũng là lúc Jimmy quyết định sẽ trở về Việt Nam sau hơn 30 năm ở Úc. Bởi ký ức đó đã để lại trong Jimmy một cảm giác day dứt khó tả, một cảnh tượng nghèo khó, đói khổ mà theo ông là “tàn dư của chiến tranh”. Việt Nam lúc bấy giờ có hơn 80% dân số sống nhờ lao động tay chân, nhiều gia đình chỉ mong có đủ bữa ăn, trẻ em nghèo ở các đô thị lớn phải ra đường mưu sinh để phụ giúp bố mẹ.
Không thông qua bất kỳ tổ chức nào, Jimmy mang hết những gì mình có để giúp các em: bánh kẹo, thức ăn, tất cả đều từ tiền túi và cách làm của riêng ông. Nhưng dường như chỉ bấy nhiêu thôi là chưa đủ, bởi một đứa trẻ đã từng nói với ông: “Chúng em cần nhiều hơn thế này, chúng em cần một công việc.”
“Nhưng tôi không thể làm gì khác. Tôi đã đăng ký cho chúng vào nhiều trung tâm đào tạo khác nhau, nhưng chúng là trẻ đường phố, chúng không có giấy tờ tùy thân, vậy nên không một ai chấp nhận cho chúng học. Tôi nghĩ, mình cần làm gì đó, và bỗng một ý tưởng chợt lóe lên, ngành nhà hàng - khách sạn dường như là thứ dễ chuyển giao nhất, cũng là thứ thực tế nhất mà tôi có thể cho chúng.” - Jimmy chia sẻ.
Vậy nên, 3 tháng sau, chàng trai 24 tuổi Jimmy Phạm quyết định rời Úc và khởi nghiệp tại Việt Nam chỉ với vỏn vẹn 300 đô trong túi, không bằng cấp về giáo dục hay phát triển cộng đồng, tất cả những gì ông có lúc bấy giờ, là quyết tâm mang lại sự thay đổi.
Jimmy không đưa “con cá” cho những người cần hỗ trợ như trước đây, ông trao “cần câu” để các bạn tự học cách câu cá. Ông đã tận dụng các mối quan hệ trong ngành khách sạn để thành lập KOTO, một tiệm bánh sandwich hoạt động theo triết lý “Know One, Teach One” - “Biết một, dạy một”. Mô hình này khởi đầu với 9 trẻ em đường phố và được duy trì bằng cách thu phí 1 đô la cho mỗi bữa sáng tự chọn.
Để trẻ em nghèo trở thành nguồn nhân lực “5 sao”
Với Jimmy, giáo dục chưa bao giờ là một điều dễ dàng. Bởi vẫn còn đó hàng ngàn trẻ em cần hỗ trợ, nuôi dưỡng và dạy dỗ, nhưng KOTO chỉ có một cơ sở đào tạo, và chi phí để đầu tư cho 1 em trong suốt 2 năm học nghề là 300 triệu đồng. Vậy nên, sàng lọc, tuyển sinh làm sao để những người cần thật sự tiếp cận được mô hình này, là một thử thách rất lớn.
“KOTO không phải một tổ chức từ thiện, vậy nên, các em cần có sự kiên cường và tư duy sẵn sàng thay đổi, thay đổi cả bản thân và những người xung quanh. Chúng tôi cho đi, và các em ấy cũng cần cho đi.”
Phải mất đến 25 năm, Jimmy mới có thể tạo ra được sự hài hòa và đồng đều trong lớp học KOTO. Một phần vì học viên của KOTO ngày nay không chỉ đơn thuần là trẻ em đường phố như những năm 90, mà còn bao gồm trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ vi phạm pháp luật, hoặc trẻ em đến từ các gia đình tan vỡ, v.v.. Mỗi em đều có một hoàn cảnh khác nhau, nhận thức, văn hoá và hành vi cũng không đồng đều. Dẫu biết rằng, những đứa trẻ đều có cùng một đầu ra, nhưng không thể áp dụng một phương pháp cho tất cả.
“Với một cô bé thuộc dân tộc thiểu số, tiếng Việt sẽ là ngôn ngữ thứ hai, còn tiếng Anh là ngôn ngữ thứ ba, và nếu bạn chỉ có 2 năm đào tạo chuyên sâu để em ấy được làm việc trong môi trường chuẩn 5 sao, thì đó là một lượng công việc khổng lồ. Bạn sẽ khó có thể dạy chúng đạt chuẩn đầu ra nếu trước tiên không dạy chúng kỷ luật.” - Jimmy chia sẻ.
“Chúng tôi cung cấp cho các em ấy những chương trình chất lượng. Các em được học tiếng Anh, học kỹ năng, học chuyên ngành theo tiêu chuẩn Úc. Nhưng nếu các em không có kỷ luật, các em sẽ dễ dàng đánh mất cơ hội. Đơn giản như chỉ vì bạn không phải “morning person” (người làm việc tốt vào buổi sáng), nên bạn từ chối tham gia một sự kiện diễn ra vào buổi sáng, tức là bạn đã bỏ lỡ một cơ hội học hỏi và mở rộng mối quan hệ của mình.”
Vậy nên, suốt năm học đầu tiên, học viên ở KOTO được yêu cầu không dùng điện thoại để duy trì thói quen tốt, xây kỷ luật và thay đổi tư duy. Thay vì bị cuốn vào những trào lưu, xu hướng trên mạng xã hội, KOTO tạo ra một môi trường thay thế với cơ sở vật chất hiện đại để đảm bảo học viên được phát triển các kỹ năng xã hội, bao gồm thư viện, sân thượng, vườn, hồ bơi, sân thể thao.
Từ 9 đứa trẻ, lên 20, và rồi bây giờ là hơn 2.000 sinh viên đã tốt nghiệp, trong số đó, có rất nhiều học viên đã thành công: làm chủ 6 nhà hàng ở Melbourne, trở thành đầu bếp riêng của các Đại sứ. Jimmy tin KOTO đã làm điều đúng đắn trong 25 năm qua, dù phát triển chậm, nhưng KOTO thật sự đã phát triển. Mục tiêu của Jimmy là xây dựng một cộng đồng trong lĩnh vực nhà hàng - khách sạn, nơi học viên các khóa sẵn sàng hỗ trợ lẫn nhau dù đã hay đang tham gia chương trình đào tạo tại nơi này.
Biến thử thách trở thành cơ hội để tái tạo mô hình
Từng có khoảng thời gian mà Jimmy cảm thấy “đầy tự mãn” bởi sự thành công và danh tiếng của KOTO trong suốt 25 năm qua, nhưng rồi COVID ập đến, toàn bộ hệ thống KOTO chao đảo. Đó cũng là lúc Jimmy nhận được sự giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần từ các cựu học viên, giúp Jimmy đứng dậy, tái cấu trúc mô hình, xây dựng chuẩn mực mới bền vững hơn.
“Học sinh và nhân viên không bao giờ rời bỏ KOTO, ngay cả khi chúng tôi phải trải qua thời điểm khó khăn nhất. Vậy nên, chúng tôi đã vượt qua điều đó, kiên cường hơn và tạo ra được KOTO ngày hôm nay. Cùng với sự hỗ trợ của các tập đoàn lớn, KOTO đã được nâng tầm thương hiệu, nâng tầm câu chuyện đào tạo nghề.”
Chính biến cố sau đại dịch COVID đã giúp Jimmy nhìn rộng hơn vào hệ sinh thái đào tạo nghề tại Việt Nam. Ông cho rằng, ở Việt Nam, câu chuyện đào tạo nghề vẫn chưa là một chủ đề được nhiều người quan tâm và chú trọng đầu tư. Mọi thứ dường như đều xoay quanh câu chuyện giáo dục đại học và các trường quốc tế, dẫn đến việc thiếu hụt về cơ sở vật chất, phương pháp giảng dạy hiện đại và kết nối với doanh nghiệp. Chính khoảng trống này đã thôi thúc Jimmy phát triển những chương trình đào tạo không chỉ dạy nghề, mà còn giúp học viên rèn luyện kỹ năng sống, tự tin khởi nghiệp và trở thành những công dân đóng góp tích cực cho xã hội.
Nhìn thấy những hạn chế trong hệ sinh thái đào tạo nghề, Jimmy hiểu rằng việc thay đổi không chỉ dừng lại ở chuyện lớp học. Để tạo ra tác động thực sự, KOTO phải vận hành như một doanh nghiệp xã hội chuyên nghiệp, vừa đảm bảo chất lượng đào tạo, vừa xây dựng các mối quan hệ đối tác bền vững, cân bằng giữa lợi nhuận và sứ mệnh xã hội. Chính vì vậy, Jimmy luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của giá trị tương hỗ, phát triển nhân tài và duy trì tiêu chuẩn chất lượng cao trong mọi hoạt động của KOTO.
Jimmy cho biết: “Chỉ vì đối tác của tôi là một thương hiệu lớn, không có nghĩa tôi phải thấy may mắn khi làm việc cùng họ. Họ không được trả lương thấp cho học viên hay bỏ qua việc phát triển nhân tài.”
Suốt 25 năm qua, Jimmy tự tin rằng khách đến nhà hàng của ông vì món ăn ngon, dịch vụ chất lượng, không gian thoải mái và giá cả cạnh tranh, chứ không phải vì đây là tổ chức từ thiện. Mặc dù về bản chất, đây chỉ là giao dịch, nhưng cũng là mối quan hệ đối tác tương hỗ: cả hai bên cùng nỗ lực, mang lại giá trị tương xứng. Đó cũng chính là tiêu chí mà Jimmy tìm kiếm ở đối tác đồng hành trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho KOTO.
Doanh nghiệp xã hội (DNXH) là doanh nghiệp được thành lập theo Luật Doanh nghiệp 2020, hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội hoặc môi trường vì lợi ích cộng đồng. DNXH vẫn là doanh nghiệp thông thường về mặt pháp lý, nhưng mang tư cách đặc biệt dựa trên mục tiêu xã hội đã đăng ký.
Theo luật, DNXH phải duy trì mục tiêu xã hội hoặc môi trường trong suốt quá trình hoạt động và sử dụng ít nhất 51% lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư cho mục tiêu đó, không phân chia lợi nhuận để thu lợi cá nhân. DNXH được nhận tài trợ trong và ngoài nước để phục vụ hoạt động, đồng thời vẫn tuân thủ đầy đủ quyền và nghĩa vụ chung của doanh nghiệp theo quy định pháp luật.
DNXH không phải một loại hình pháp lý độc lập mà chỉ là tư cách gắn với doanh nghiệp đã đăng ký. Các doanh nghiệp thông thường muốn được công nhận là DNXH phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chí về mục tiêu xã hội và cơ chế sử dụng lợi nhuận nêu trên.
Bên cạnh DNXH, còn tồn tại nhiều hình thức tổ chức theo đuổi mục tiêu vì cộng đồng. Trong đó phổ biến là quỹ xã hội và quỹ từ thiện, những mô hình có bản chất pháp lý và cơ chế hoạt động hoàn toàn khác biệt.