Giáo sư Chung Hoàng Chương: Nước, cần được đặt đúng vị trí vốn có, xứng đáng được trân trọng và đối đãi tử tế | Vietcetera
Billboard banner
Vietcetera

Giáo sư Chung Hoàng Chương: Nước, cần được đặt đúng vị trí vốn có, xứng đáng được trân trọng và đối đãi tử tế

Thế giới có England, Dutchland, Switzerland, nhưng Việt Nam là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hồng Gấm
Giáo sư Chung Hoàng Chương: Nước, cần được đặt đúng vị trí vốn có,  xứng đáng được trân trọng và đối đãi tử tế

Nguồn: Danky cho Vietcetera

Khởi nguồn từ Tây Tạng, Mekong là một trong 12 con sông lớn nhất thế giới, nối liền 6 quốc gia: Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam ở cuối nguồn. Từ bao lâu nay, dòng Mekong vẫn miệt mài chảy qua từng lớp phù sa, nuôi dưỡng đồng bằng, bồi đắp nên đời sống, văn hóa và cả tính cách bền bỉ của con người sinh sống quanh đây.

Sông nước có quan hệ gắn bó mật thiết với người Việt. Thế nhưng, theo Giáo sư Chung Hoàng Chương, không phải ai cũng hiểu sâu sắc về vai trò của nước. Giáo sư đã có nhiều năm học tập và giảng dạy ở nước ngoài, trước khi trở về dành trọn tâm huyết cho việc nghiên cứu văn hóa sông nước, đặc biệt là văn minh Mekong và đồng bằng nơi ông sinh ra.

Trong tập Have A Sip mới nhất, host Thùy Minh đã có dịp ngồi lại cùng thầy Chung Hoàng Chương, để nghe thầy kể về hành trình gần 20 năm dành cho Mekong, với những quan sát về dòng chảy, văn hóa và con người, cả những trăn trở về sự thay đổi của đồng bằng hôm nay.

1. Trong một bài báo thầy viết, em rất ấn tượng với câu mở đầu: “Tôi sinh ra ở Tiền Giang, nhưng chẳng biết gì về nơi mình chào đời, cho đến ngày trở lại sau 50 năm sống ở nước ngoài.” Năm 2008, thầy nhận nghiên cứu về văn hóa lưu vực sông Mekong. Nhưng trước đó, bên trong thầy đã có một “dòng sông” nào chảy sẵn chưa ạ?

Khoảng thời gian ở Mỹ, mình đã có cơ hội tiếp xúc với nhiều con sông lớn. California - nơi mình sống, có con sông Sacramento rất dài. Con gái mình có một người bạn thân ở tiểu bang Texas, hai chị em thường rủ nhau xuống thành phố New Orleans ở bang Louisiana - nơi có sông Mississippi gắn với nhiều câu chuyện văn hóa và lịch sử, từ những chuyến tàu chạy dọc trên sông đến những tác phẩm nổi tiếng của Mark Twain.

Khi đọc thêm, mình mới thấy vùng đồng bằng Mississippi được hình thành và gìn giữ bởi nhiều cộng đồng di dân, trong đó có cả người Hoa. Mình cũng sinh ra ở một vùng đồng bằng, Mississippi cũng là đồng bằng. Ở Mỹ còn nhiều vùng châu thổ khác nữa. Sự tò mò về những miền đất như vậy khiến mình muốn trở về tìm hiểu nơi mình chào đời và lớn lên giữa một vùng đất phù sa.

Sự tò mò về những miền đất khiến Giáo sư muốn trở về tìm hiểu nơi mình chào đời và lớn lên giữa một vùng đất phù sa. | Nguồn: Danky cho Vietcetera

2. Em được biết thầy từng giảng dạy ở Mỹ, nhưng trước đó lại học ở Pháp. Thầy có thể chia sẻ cụ thể hơn về hành trình học tập của mình không ạ?

Giai đoạn đầu ở châu Âu, mình học về nghệ thuật tạo hình (visual art). Sau đó sang Mỹ, mình tiếp tục theo đuổi nhiếp ảnh và điện ảnh, song cũng gặp nhiều khó khăn về kinh tế. Đến lúc nhận được học bổng học về lý thuyết và phương pháp giáo dục, mình quyết định chuyển hướng. Học xong, mình đi dạy và từ đó gắn bó với vai trò người thầy.

Kể ra thì quá khứ của mình cũng khá đặc biệt. Vì mẹ sinh mình ra mà không có chồng, nên phải gửi sang cho gia đình khác nuôi. Bối cảnh xã hội Việt Nam thời bấy giờ, việc một người phụ nữ mang thai mà không có chồng bị nhìn nhận khắt khe lắm.

May mắn thay, gia đình nhận nuôi là một gia đình rất đàng hoàng. Ba nuôi mình là một thợ chụp hình, ngày xưa người ta không có khái niệm “nhiếp ảnh gia”. Từ mẫu giáo đến hết lớp 12, mình học chủ yếu bằng tiếng Pháp. Sau khi lấy bằng tú tài Pháp, ba mẹ nuôi cho mình sang Bỉ, với mong muốn giúp mình nâng tầm từ một “thợ chụp hình” thành một nghệ nhân, một nhiếp ảnh gia thực thụ.

3. Cuộc đời thầy có nhiều nhiễu động, như thầy nói, từ gia cảnh, môi trường học tập, đến những giai đoạn giảng dạy ở nhiều nơi. Trải qua nhiều thời kỳ, nhiều môi trường khác nhau, việc “làm người Việt Nam” có ý nghĩa như thế nào đối với thầy ạ?

Mình sinh vào những năm cuối thập niên 40, ngay sau khi Thế chiến thứ II kết thúc. Năm 17 tuổi, vừa thi xong tú tài rồi đi du học, mình cảm giác đã bỏ lỡ nhiều thứ, nhất là những trải nghiệm truyền thống văn hóa Việt Nam.

Thế nên “ý nghĩa làm người Việt Nam” chỉ trở nên rõ ràng khi có thế hệ thứ hai xuất hiện, tức là hai đứa con của mình. Ban đầu, những câu hỏi của chúng tưởng chừng rất ngây thơ: “Ba ơi, con là người gì? Con là người Việt, người Mỹ, hay là cái gì khác?”, nhưng lại đặt vấn đề bản ngã, căn tính, khiến mình suy nghĩ nhiều hơn.

Trên giấy tờ, mình là công dân Mỹ. Nhưng trong tâm thức, trong cách mình đối thoại với con, trong những câu chuyện kể về ông bà nội, ông bà ngoại, trong những lời khuyên dạy hằng ngày, mình biết mình vẫn còn một phần Việt Nam trong đó. Hai bạn nhỏ nhà mình đi học trong môi trường Mỹ, từ ngôn ngữ đến văn hóa. Nhưng về đến nhà, các con phải bước vào không gian mang theo nhịp sống và nếp sinh hoạt của người Việt Nam.

Đáng buồn là thời gian để trò chuyện, giải thích, truyền lại những giá trị ấy ngày càng ít đi. Ở Việt Nam, một gia đình có thể gặp nhau ba bữa cơm trong ngày, có thể kể chuyện gia đình, chia sẻ suy nghĩ, dạy con cách sống, nhắc lại truyền thống tốt đẹp. Nhưng ở Mỹ, điều đó gần như không tồn tại. Khoảng thời gian đối thoại với con cứ thế thu hẹp dần.

Trong tâm thức, trong cách đối thoại với con, trong những câu chuyện kể về ông bà nội, ông bà ngoại, trong những lời khuyên dạy hằng ngày, Giáo sư nhấn mạnh mình vẫn còn một phần Việt Nam trong đó. | Nguồn: Danky cho Vietcetera

4. Việc lựa chọn dạy học chuyên ngành về Á Châu, đặc biệt là Đông Nam Á, có phải quyết định có chủ ý ngay từ đầu của thầy không ạ?

Ban đầu mình không có định hướng đó. Nhưng trong quá trình được đào tạo chuyên sâu về các lý thuyết đa văn hóa và song ngữ, cộng hưởng với những trải nghiệm của bản thân, những chuyến đi, những lần thay đổi môi trường, những va đập văn hóa, mình nhận ra có một điều thôi thúc bên trong, rằng muốn quay lại tìm hiểu gốc rễ của chính mình, muốn biết nguồn cội văn hóa của mình được hình thành ra sao.

Mình bắt đầu tổ chức những chuyến đi thực địa cho sinh viên có gốc Đông Nam Á như H’Mông, Dao, Thái, Việt, Lào,.... Đi cùng các em, mình nhìn thấy rõ giá trị của những nền văn hóa đó. Khi hiểu được những giá trị ấy, các em giữ được bản sắc của mình hơn, tình cảm với nguồn cội, quê hương cũng rõ ràng hơn.

Văn hóa Đông Nam Á và Á Châu nhìn chung có những mạch tương đồng sâu xa. Những triết lý như Khổng giáo, Lão giáo, những tôn giáo bản địa hoặc dung hòa như Phật giáo Việt Nam, đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài… tất cả tạo nên một bức tranh đa dạng nhưng giàu chiều sâu. Sự đa dạng ấy khiến mình cảm thấy thú vị, muốn chia sẻ với sinh viên, để các em vừa hiểu người khác, vừa hiểu về chính mình.

5. Nhiều người gọi thầy là “bậc thầy về sông Mekong”, thầy nghĩ sao về điều này? Và sau chuyến đi đầu tiên đến dòng sông Mekong, có điều gì trong thầy thay đổi không ạ?

Mình không dám nhận đâu (cười). Vì nhiều đồng nghiệp của mình đã gắn bó và gần như thở hơi thở của đồng bằng. Riêng mình mới chỉ chạm vào hương vị, “nếm” được chút mùi phù sa, chút mùi rau cỏ của nó. Chưa thể nói là hòa vào hoàn toàn được.

Có một điều luôn thôi thúc bên trong, khiến Giáo sư muốn quay lại tìm hiểu gốc rễ của chính mình, muốn biết nguồn cội văn hóa của mình được hình thành ra sao. | Nguồn: Danky cho Vietcetera

Nhiều đồng nghiệp của mình đã gắn bó và gần như thở hơi thở của đồng bằng. Riêng mình mới chỉ chạm vào hương vị, “nếm” được chút mùi phù sa, chút mùi rau cỏ của nó

Ở chuyến đi đầu tiên, mình ghé ba nơi. Trước hết là thượng nguồn, vùng Vân Nam. Sau đó là trung nguồn quanh Luang Prabang, Luang Nam Tha, Bắc Bản. Mình cứ men theo đến đập Tam Hiệp ở Trung Quốc. Vì tò mò về hệ thống đập nước, khi đến khu vực Hồ Bắc ở thành phố Nghi Xương, mình ở lại một thời gian và tình nguyện dạy tiếng Anh cho một trường trung học.

Mình hỏi các em học sinh hiểu thế nào về sông nước xung quanh, nhất là đập Tam Hiệp khổng lồ cách đó không xa. Thật bất ngờ là nhiều em hoàn toàn không biết gì về con sông mỗi ngày vẫn thấy trước mắt. Dòng nước từ Trùng Khánh chảy qua Nghi Xương, rồi đổ ra biển ở Thượng Hải, nhưng trong nhận thức của các em, gần như là một khoảng trống.

Tại sao nước ở ngay đó, hiện hữu như thế, mà con người lại ít tương tác với nó? Trong khi cơ thể mình hai phần ba là nước, và chỉ cần thiếu nước ba ngày là khó có thể sống. Từ những câu hỏi ban đầu, mình tò mò nhiều hơn, rằng ở đồng bằng nơi mình sinh ra, con người hiểu về nước thế nào? Nền văn minh lúa nước đã nuôi dưỡng chúng mình ra sao? Thế là mình quay về và nghiên cứu về nước.

6. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có khoảng 18 triệu người sống dựa vào sông nước. Nếu tính toàn vùng thì con số đó lên đến khoảng 60 triệu. Nhưng đúng là hiểu biết của chúng ta về sông nước còn ít. Theo thầy, vì sao những người sống gần nước nhất, phụ thuộc vào nước nhất, lại dường như không mấy quan tâm hay muốn tìm hiểu về nước?

Mình nghĩ đơn giản là vì người ta xem nước như điều hiển nhiên. Nó ở ngay đó, lúc nào cũng có, muốn là dùng được. Nước phục vụ từ việc nấu ăn, tắm rửa, tưới vườn, đến nuôi cá, đi lại… Vì quá quen thuộc, người ta thấy nó… bình thường, chưa bao giờ đặt câu hỏi: “Nếu không có nước thì sẽ ra sao?”

Ngay cả những con sông gắn liền lịch sử, như sông Bạch Đằng, mình thường chỉ nhớ đến câu chuyện lịch sử, chứ không nhìn nước như một yếu tố đang tác động lên đời sống mỗi ngày.

Nếu nhìn vào vai trò người phụ nữ ở đồng bằng, ta sẽ thấy mức độ gắn bó của họ với nước rất lớn. Một ngày của họ gần như xoay quanh nước: sáng nấu nước, tắm rửa cho con, đưa con ra bến ghe. Nước lên thì ghe cập sát bờ, nước xuống thì phải lội xa hơn, kéo quần lên mà bươn qua bùn để đưa con lên ghe đi học. Về nhà giặt đồ, lại cần nước. Trưa nấu cơm, chiều ra đón con… Thời gian dành cho nước nhiều đến mức họ gần như không còn cơ hội để học thêm, trau dồi hay nâng cao trình độ.

Giáo sư Chung Hoàng Chương cho biết, nếu nhìn vào vai trò người phụ nữ ở đồng bằng, ta sẽ thấy mức độ gắn bó của họ với nước rất lớn. | Nguồn: Danky cho Vietcetera

7. Em có cảm giác những dòng sông luôn gắn với một mốc quá khứ nào đó. Khi nhỏ, ta thấy nó đẹp, hiền hòa, đầy kỷ niệm. Nhưng lớn lên, nghĩ tới chuyện lập nghiệp, cơm áo, phải lên thành phố để có đời sống sung túc hơn, thì hình ảnh dòng sông lại như… đi ngược với những điều trên. Theo thầy, có phải vì vậy mà người ta dễ tách mình khỏi sông nước không ạ?

Đó là cảm giác của rất nhiều người. Thậm chí, người ta còn dùng phép ẩn dụ để ví von tính cách của từng dòng sông. Sông Hồng mạnh mẽ và thay đổi bất ngờ, như tính cách phụ nữ Hà Nội – cá tính và đầy chiều sâu. Còn sông Mekong ở miền Nam thì lặng lẽ, chậm rãi, phản ánh phần nào sự hiền hòa, thong thả của con người vùng đồng bằng.

Nhưng nếu nhìn sâu hơn, gần như dòng sông nào cũng là cội nguồn của một nền văn minh. Sông Nile tạo nên Ai Cập cổ đại. Sông Dương Tử và Hoàng Hà là cái nôi của văn minh Trung Hoa. Sông Hồng gắn với sự hình thành Thăng Long và những lớp áo lịch sử của đất nước. Ở đồng bằng, sông Mekong cũng mang trong nó một nền văn minh riêng - bền bỉ, phong phú, không hề thua kém bất kỳ dòng sông nào trên thế giới.

Vấn đề là những giá trị ấy tồn tại ngay trước mắt, gần gũi đến mức người ta quên đi, không để ý nữa. Chỉ khi nhìn lại thật kỹ, ta mới thấy được dòng sông đã nuôi dưỡng con người qua nhiều thế hệ như thế nào.

8. Nhiều năm nay, cảnh báo về biến đổi khí hậu ngày một rõ. Mũi Cà Mau bị thu hẹp, lũ lụt xảy ra dày đặc ở nhiều nơi, có cảm giác chúng ta đang sống trong một viễn cảnh không mấy lạc quan. Thưa thầy, nếu phải nói về viễn cảnh u ám nhất mà nước và các dòng sông có thể mang lại cho con người, đó sẽ là gì ạ?

Cái u ám đó đến từ việc mình không nhìn đúng vai trò của nước. Ở những vùng như Phú Yên hay cả dải miền Trung, năm nào cũng lụt, nguyên nhân đều có gốc rễ. Một phần lớn là do khai thác quá mức các khu vực cao hơn, mở các dự án thủy điện nhỏ. Nhiều dự án trong số đó không thực sự đặt mục tiêu làm thủy điện lên hàng đầu. Họ có những mục đích khác, thủy điện chỉ là cái cớ.

Chẳng hạn khi xin làm dự án, họ chặt một mảng rừng lớn để “chuẩn bị mặt bằng”. Gỗ quý bán được đã đủ tạo ra lợi nhuận. Đến lúc khảo sát lại, họ báo rằng thổ nhưỡng không phù hợp để làm hồ chứa nước, rồi bỏ dở. Theo quy định, họ phải trồng lại rừng, nhưng họ không trồng rừng nguyên sinh mà đưa vào những loại cây rẻ tiền, không phù hợp. Cây chết, đất trọc, khả năng giữ nước của khu rừng gần như biến mất.

Rồi lại có thêm dự án thứ hai, thứ ba ở khu vực bên cạnh. Cứ thế, rừng mất dần. Khi không còn rễ cây giữ đất và giữ nước, chỉ cần mưa lớn hay biến đổi khí hậu làm dòng nước mạnh lên, các hồ nhỏ đều sợ vỡ đập và phải xả xuống. Những người hứng chịu hậu quả là dân Phú Yên, Quy Nhơn, Quảng Ngãi,...

Hãy nhớ rằng, nước có hai mặt. Nó có thể làm dịu tâm trí, nuôi dưỡng đời sống. Nhưng khi nổi giận, nó cũng tàn phá mạnh mẽ. Và khi đánh giá thấp nó, con người lập tức phải trả giá.

Thầy cho rằng nước có hai mặt. Nó có thể làm dịu tâm trí, nuôi dưỡng đời sống. Nhưng khi nổi giận, nó cũng tàn phá mạnh mẽ. | Nguồn: Danky cho Vietcetera

9. Vậy theo thầy, con người nên có thái độ như thế nào với nước ạ?

Điều chúng ta cần làm là nhìn lại, đặt nước vào đúng vị trí vốn có - một thứ xứng đáng được trân trọng và đối đãi tử tế. Khi đã biết tôn trọng nước, mình mới biết cách dùng nó bền vững.

Ở Việt Nam, nước hiện diện khắp nơi. Điều thú vị là nhiều quốc gia gọi đất nước họ bằng chữ “land” - như Dutchland (Đức), England (Anh), Switzerland (Thụy Sĩ)… Còn Việt Nam là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lúa của mình cũng gọi là lúa nước. Nghĩa là trong gốc rễ ngôn ngữ, nước đã là một phần bản sắc.

Nếu nhận thức được vai trò của nước ở đồng bằng, mình có thể gìn giữ và phát huy những giá trị gắn với nó, từ chợ nổi, miếu nổi đến những ngôi làng sống dựa vào sông. Nhưng hiện nay, lượng đập thủy điện dày đặc ở thượng nguồn, biến đổi khí hậu, hạn hán kéo dài, hay việc khai thác quá mức khiến dòng chảy tự nhiên bị bóp nghẹt. Nước không còn lan ra hai bên để bồi phù sa, để trẻ hóa đất như xưa.

Chỉ khi nào trở về với tinh thần “thuận theo tự nhiên”, biết khai thác đúng mức, đồng bằng mới có cơ hội hồi phục. Các nhà khoa học đã cảnh báo rằng nếu không làm gì, đến năm 2050, chúng ta có thể mất tới một phần ba đồng bằng. Không còn là viễn tưởng, đây là thực tế. Mũi Cà Mau từng mỗi năm tiến thêm hàng trăm mét, giờ đã lùi dần. Rừng nước, rừng mắm, rừng bần - những tấm lá chắn giữ đất, cũng suy kiệt dần.

Nếu muốn “chăm” nước, ta phải có cách quản lý để người dân vừa mưu sinh được, vừa để thiên nhiên tự phục hồi. Chẳng hạn, khi nuôi tôm trong rừng nước, ta phải để lại một phần rừng sống tự nhiên. Khi chuyển vùng nuôi, vùng cũ phải được trả lại cho rừng tái sinh. Những thể chế như vậy cực kỳ quan trọng để sử dụng nước một cách đúng đắn và công bằng, với cả con người lẫn với tự nhiên.

10. Sau tất cả những điều đã làm, hiện tại mong muốn của thầy là gì ạ? Còn điều gì trong “bucket list” mà thầy muốn thực hiện trong thời gian sắp tới?

Trong các dự định, nhất là hướng tới năm 2026, mình có vài ước vọng rất rõ ràng.

Điều đầu tiên, mình mong có thể hình thành một trung tâm nghiên cứu đặt tại Cần Thơ, chuyên sâu về Mekong, để đưa ra một mô hình thật sự hữu ích cho đồng bằng - nơi các nghiên cứu về sông nước, biến đổi khí hậu và đời sống cư dân phải gắn với thực tế mỗi ngày.

Điều thứ hai, mình muốn thúc đẩy những nghiên cứu về phụ nữ ở Đồng bằng sông Cửu Long. Các đồng nghiệp nữ của mình sẽ đóng vai trò chính và mình chỉ hỗ trợ họ kết nối, mở được cánh cửa đến các nguồn tài trợ quốc tế để họ có thể làm những nghiên cứu đúng với hoàn cảnh của vùng đất này.

Điều thứ ba, nếu trung tâm về Mekong ở Cần Thơ có thể lan tỏa, mình hy vọng xây dựng được những nhóm nghiên cứu chung trong toàn lưu vực, liên kết với các trường đại học ở Thái Lan, Lào, Campuchia… để tạo thành một mạng lưới hợp tác bền vững. Khi đó, các nghiên cứu không chỉ nhìn từ một phía, mà có thể cân bằng ảnh hưởng từ những nước thượng nguồn đang nắm quyền kiểm soát phần lớn các đập nước.

Giáo sư có những ước vọng rất rõ ràng cho năm mới. | Nguồn: Danky cho Vietcetera

Xa hơn nữa, mình mong có được một công ước xuyên quốc gia, một cam kết chung của 6 quốc gia cùng uống chung một dòng nước Mekong. Điều này rất khó, nhưng không có nghĩa là không thể. Châu Âu đã làm được với sông Rhine và sông Danube. Châu Phi cũng có những hiệp ước cho sông Zambezi. Nếu các nước hạ nguồn, trong đó Việt Nam chịu thiệt hại nhiều nhất, có thể phối hợp chặt chẽ và có tiếng nói chung trong khối ASEAN, mình có cơ hội đi tới một thỏa thuận như thế.

Mình tin rằng chỉ khi có sự hợp tác dài lâu, bền vững của dòng Mekong, sự sống còn của đồng bằng mới thật sự được đảm bảo.